Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước có những người lính đi giữa kẻ thù mà không biến sắc, tung
hoành ngang dọc trong hàng ngũ đối phương. Họ là những chiến sĩ tình báo sống
trong những vỏ bọc khác nhau để hoạt động. Là những người lính tuyệt đối trung
thành với Tổ quốc và Nhân dân Việt Nam dẫu phải đối diện với cái chết cũng
không hé răng khai báo với quân thù. Một chiến sĩ tình báo có sức chiến đấu như
một Quân đoàn thậm chí như một Tập đoàn quân (lời Stalin) nhưng có thể hàng
chục năm sau khi hy sinh chiến sĩ tình báo vẫn chưa được trả lại thân phận thực
sự của mình hoặc không bao giờ được trả lại vì nguyên tắc đơn tuyến, bí mật.
Phạm Ngọc Thảo là một trường hợp như vậy.
Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân Đại tá, Liệt sĩ Phạm Ngọc
Thảo nguyên mẫu hình tượng Đại tá Nguyễn Thành Luân trong tác phẩm "Ván
bài lật ngửa" của nhà văn Trần Bạch Đằng (Nguyễn Trường Thiên Lý). (Tiểu
thuyết "Giữa biển giáo rừng gươm" của nhà văn Trần Bạch Đằng được
dựng thành phim với tựa đề "Ván bài lật ngửa". Bộ phim thành công tới
mức sau đó nhà văn Trần Bạch Đằng đã lấy nhan đề này đặt lại cho tiểu thuyết).
Xuất thân từ một gia đình Công giáo toàn tòng "trâm anh thế phiệt"
dưới chế độ thực dân ở Nam Bộ. Gia đình ông có tới hơn 4000 mẫu đất và gần 1000
căn nhà rải rác ở khắp các tỉnh Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Sa
Đéc, Vĩnh Long. Cả gia đình được nhập quốc tịch mẫu quốc - là công dân của Cộng
hòa Pháp. Khác với anh em trong gia đình ông đều du học Pháp, Chín Thảo (Phạm
Ngọc Thảo còn có tên là Albert Phạm Ngọc Thảo, còn gọi là Albert Thảo nhưng mọi
người thường gọi là Chín Thảo vì ông là con thứ 8 trong gia đình) ra Hà Nội
theo học trường Kỹ sư Công chính Hà Nội. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, những
người anh em của ông theo Việt Minh tham gia Chính quyền Nhân dân. Khi thực dân
Pháp quay lại với âm mưu tái chiếm Việt Nam, Phạm Ngọc Thảo tuyên bố hủy bỏ
quốc tịch Pháp quay về miền Nam theo Việt Minh. Trên đường tìm đến với Cách
mạng ở Miền Nam noi theo dấu chân của anh em trong gia đình ông bị dân quân
Việt Minh trói ném xuống sông để thủ tiêu do hiểu nhầm ông là mật thám Pháp.
Nhờ may mắn ông sống sót nhưng vẫn quyết tâm tìm về với Cách mạng. Năm 1946,
ông cùng 12 chiến sĩ Nam Bộ khác được cử ra Bắc theo học trường Võ bị Trần Quốc
Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) khai giảng khóa đầu tiên. Mãn khóa ông
được điều về Phú Yên nhận công tác, trong một lần ông được giao nhiệm vụ bảo vệ
một cán bộ vào Nam đó chính là đồng chí Lê Duẩn - người có ảnh hưởng lớn đến
cuộc đời tình báo sau này của Đại tá Thảo.
Ảnh:
Đại tá Phạm Ngọc Thảo trong vỏ bọc Đại tá ngụy quân Sài Gòn (nguồn: tạp chí
LIFE của Mỹ)
Trong tác
phẩm "Anh hùng Phạm Ngọc Thảo" của Phạm Tường Mạnh đã miêu tả có
những đoạn đường Đại tá Thảo phải cõng đồng chí Lê Duẩn trên vai vì sức khỏe
đồng chí Lê Duẩn vẫn còn yếu (do 5 năm bị thực dân Pháp tù đày ở Côn Đảo lần
thứ 2, sau Cách mạng Tháng Tám thành công mới được đón về đất liền), giữa tình
cảm đồng chí mà cũng như chú - cháu trong gia đình. Trở về Nam Bộ, Phạm Ngọc
Thảo được giao nhiều nhiệm vụ tiểu đoàn trưởng, trung đoàn phó, trưởng phòng
mật vụ, sĩ quan tham mưu... trong những lần chống địch càn mọi người vẫn thấy
một tiểu đoàn trưởng quần vải, lưng trần, chân đất cầm súng lăn xả trên tuyến
đầu đánh địch.
Ảnh:
Đồng chí Phạm Ngọc Thảo (thứ hai từ trái sang) trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 410
tại miền Tây Nam Bộ năm 1952. (nguồn: báo baophuyen.com.vn)
* Bắt đầu sự nghiệp hoạt động tình báo
Sau hiệp định Genève, ông được đích thân Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Lê
Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam hoạt động tình báo, để hình thành "lực
lượng thứ ba" trong trường hợp Hiệp định Geneve không được đối phương thi
hành. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nhận xét "anh Ba Duẩn rất tin cậy
Phạm Ngọc Thảo và đã giao cho đồng chí Thảo một nhiệm vụ đặc biệt", "anh
Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công
tác cách mạng của chúng ta". Thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn cũng đã
nhận xét trong cuốn "Điệp viên hoàn hảo": "Nhiệm vụ được giao
cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi... Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo
nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều". Sự đặc biệt của nhiệm vụ của
Đại tá Thảo không giống những sĩ quan tình báo khác là "chui sâu leo
cao" ẩn mình trong hàng ngũ đối phương để khai thác thông tin tình báo mà
nhiệm vụ của Đại tá Thảo là "tung hoành ngang dọc" trong hàng ngũ kẻ
thù, đánh chúng ngay từ bên trong, gây bất ổn chính trị và "thay đổi chế
độ tại miền Nam". Vì không chịu ký tên vào giấy "hồi chánh" nên
Phạm Ngọc Thảo bị An ninh quân đội ngụy lùng bắt nhiều lần nhưng đều trốn
thoát. Là một người Công giáo nên ông được Giám mục Phêrô Ngô Đình Thục (anh
trai của Ngô Đình Diệm, vốn quen biết gia đình ông từ lâu) nâng đỡ và tiến cử
với Diệm - Nhu. Sau đó ông tham gia vào hàng ngũ ngụy quân Sài Gòn nhờ khôn
khéo tận dụng chính sách "đả thực bài phong" của địch với cấp bậc Đại
úy "đồng hóa" rồi tiến thân bằng cách gia nhập "Đảng Cần lao
nhân vị" mà theo Đỗ Mậu (từng là "công thần" tâm phúc của Ngô
Đình Diệm nhưng cũng là một trong những người cầm đầu ngụy quân làm đảo chính
lật đổ Diệm - Nhu năm 1963) phải gọi là "Cần lao Công giáo" theo đó
những người theo Công giao gia nhập Đảng này đều được anh Diệm - Nhu nâng đỡ và
thăng tiến trong bộ máy ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Chính Nguyễn Văn Thiệu
cũng cải đạo từ Phật giáo sang Công giáo rồi gia nhập "Cần lao Công
giáo" để hương ơn mưa móc từ anh em họ Ngô. Phạm Ngọc Thảo được Ngô Đình
Diệm tin tưởng giao cho nhiều công tác trong đó có cả làm việc tại cơ quan tình
báo, phản gián trực thuộc phủ Tổng thống ngụy - như một sự khôi hài của lịch
sử, một sĩ quan tình báo phía bên kia lại là chỉ huy tình báo của đối phương.
Trong một lần ông được trùm mật vụ Trần Kim Tuyến giao nhiệm vụ đi vây bắt
chính người thầy của mình - Lê Duẩn ông đã ra lệnh binh sĩ hú còi inh ỏi từ nơi
cách xa địa điểm bắt hàng cây số. Và đấy là lần duy nhất ngụy quân đã có thể
bắt được đồng chí Lê Duẩn. Ông hết sức ủng hộ Diệm - Nhu với "quốc
sách" Khu Trù Mật (Ấp chiến lược) vì ông biết chắc cách làm đó sẽ gây thất
nhân tâm sẽ gây oán than trong Nhân dân và rõ ràng với nhiều việc gây thất nhân
tâm khác của "Ngô Triều" với chế độ gia đình trị (như nhận xét của Đỗ
Mậu) thì việc sụp đổ của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian.
* "Học sinh biệt động" ám sát hụt Trung tá Tiểu khu
trưởng, kiêm Tỉnh trưởng Kiến Hòa Phạm Ngọc Thảo
Chiếm được sự tin tưởng của Ngô Đình Diệm, ông được Diệm thăng
Trung tá bổ nhiệm chức vụ Tỉnh trưởng Kiến Hòa (nay là tỉnh Bến Tre). Phạm Ngọc
Thảo đã rất khôn khéo khi ra điều kiện với Ngô Đình Diệm: Một là ổn định tình
hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành
động như những quân nhân võ biền khác. Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng
chứng, cho lập phiên tòa xét xử. Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo
cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào. Ông giải thích với Ngô Đình Diệm
rằng ông muốn làm như vậy như một cách thí điểm một chính sách cầm quyền mới
nhằm tranh thủ nhân tâm, thân dân, ông muốn có một sự mềm dẻo với dân chúng. Và
ông được Diệm đồng ý với các điều kiện mà ông đặt ra. Ngay sau khi nhậm chức,
Trung tá tỉnh trưởng đã cho thả hơn 2.000 người yêu nước đang bị địch giam cầm,
liên hệ với đồng chí Nguyễn Thị Định để tạo điều kiện cho khởi nghĩa Bến Tre.
Chính vì được toàn quyền xét xử nếu bắt được "Việt Cộng", đồng chí
Phạm Ngọc Thảo đã trừng trị những tên phản bội, chỉ điểm, "chiều
hồi", đầu hàng địch. Và vì điều kiện không bạo lực nên binh lính ngụy quân
không được đàn áp nhân dân và đây là hành động "bật đèn xanh" cho
phong trào "đồng khởi" sau này. Và nhờ vào chỉ phải báo cáo với
"Tổng thống Diệm" nên không phải chịu sự chi phối của Bộ, Ban hay Tư
lệnh Vùng chiến thuật do đó Trung tá Tỉnh trưởng đã biến Kiến Hòa thành một
vùng tự trị với những chính sách riêng.
Ảnh:
Trung tá, tỉnh trưởng Kiến Hòa Phạm Ngọc Thảo năm 1961 (nguồn: tạp chí LIFE của
Mỹ)
Tuy nhiên,
với vỏ bọc tình báo là một quan chức cấp cao của ngụy quân, ngụy quyền nên ông
trở thành mục tiêu ám sát của biệt động Bến Tre. Vào dịp Quốc khánh ngụy quyền
Sài Gòn, 26/10/1961 một cuộc biểu dương lực lượng do Tỉnh trưởng Phạm Ngọc Thảo
chủ trì tại Quảng trường An Hội thì có 2 trái lựu đạn MK2 quăng lên lễ đài.
Trái đầu tiên cách Phạm Ngọc Thảo khoảng mét rưỡi, đồng chí Thảo chụp trái lựu
đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao, nếu ném ra bên ngoài thì
chết dân, ném bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết
làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn.
Trái thứ 2 cách Phạm Ngọc Thảo tầm chục mét và cũng không nổ. Sau đó, Đặng Quốc
Tuấn (Sáu Tuấn) và Ngô Văn Thiều hai "học sinh biệt động" thực hiện
vụ ám sát hụt trên khi đang là học sinh đệ tam (lớp 10) bị địch bắt. Phạm Ngọc
Thảo đã đến thăm gặp và khuyên: "Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành,
chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm".
Sau ngày giải phóng, ông Đặng Quốc Tuấn cho rằng 2 trái lựu đạn không nổ có nội
gián của địch trong công binh xưởng và sau này có bắt được một tên địch cài cắm
trong công binh xưởng của ta. Bà Phạm Thị Nhiệm (vợ Đại tá Thảo, hiện định cư
tại Hoa Kỳ) thỉnh thoảng về nước, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói: “Ngày xưa anh
Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”.
*"Tư lệnh" "không quân" - chuyên gia đảo
chính
Trong những năm 1962 - 1963, phong trào Đồng khởi lan rộng. Đồng
thời với chế độ gia đình trị của "Ngô Triều" (theo cách gọi của Đỗ
Mậu) đã làm thất nhân tâm, lòng dân oán thán, tướng lãnh binh sĩ của ngụy quân
bè phái và nảy sinh bất mãn với sự cai trị của anh em Diệm - Nhu. Đấu tranh của
quần chúng nổ ra ở nhiều nơi, Phật tử xuống đấu tranh đòi bình đẳng, tự do tôn
giáo; sinh viên cũng bãi khóa, biểu tình tham gia đấu tranh chống ngụy quyền;
nhiều nhóm sĩ quan ngụy quân âm mưu đảo chánh... Và đặc biệt, Mỹ đã muốn
"thay ngựa giữa dòng", Mỹ cần một viên "thái thú" mới biết
nghe lời hơn Diệm. Biết trước sau gì tổng thống Ngô Đình Diệm cũng bị người Mỹ
lật đổ để dựng lên một chính quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng kết hợp
Trần Kim Tuyến cũng đang bất mãn anh em họ Ngô lên một kế hoạch đảo chính với
mục tiêu đổi chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ của người Mỹ. Không may kế hoạch bị
bại lộ, Trần Kim Tuyến bị lưu đày đi làm đại sứ ở Ai Cập nhưng Phạm Ngọc Thảo
lại bình yên vô sự. Vì Ngô Đình Nhu - được xem là "bộ não của chế độ"
không tin Phạm Ngọc Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin
Thảo phản bội, thứ hai là Thảo “không có quân” (vì Phạm Ngọc Thảo không có thực
quyền quản lý một đơn vị chiến đấu nào cả). Thực ra Nhu đã nhầm, lúc đó Phạm
Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động
quân, Bảo an,... hậu thuẫn. Vài tháng sau, vào ngày đầu tiên của tháng 11/1963,
được sự "bật đèn xanh" của Mỹ một cuộc đảo chính khác do nhóm sĩ quan
khác nổ ra và cầm đầu là Dương Văn Minh với sự góp mặt của đông đảo tướng tá
trong đó có cả Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ. Nhanh chóng, Phạm Ngọc
Thảo đã tham gia cuộc đảo chính này, ông đã chỉ huy quân đảo chính chiếm được
Đài Phát thanh Sài Gòn. Sau khi chiếm Đài Phát thanh, quân đảo chính thông báo
danh sách những tướng lĩnh tham gia đảo chính, hầu hết các tướng lĩnh đều có
trong danh sách này. Quân đảo chính cũng phát lời hiệu triệu đại ý gồm có lời
tuyên bố lý do quân đội phải đứng lên lật đổ chế độ, lời kêu gọi ông Diệm đầu
hàng, lời hứa sẵn sàng để cho ông Diệm xuất ngoại và lời hiệu triệu quốc dân
đồng bào đoàn kết làm hậu thuẫn cho cuộc đảo chính. Nhưng ngày hôm sau, hai cái
xác của anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu đã bị bắn, bị đâm bấy nhầy nằm trong
một chiếc thiết vận xa M113 đậu trong Bộ tổng tham mưu ngụy quân Sài Gòn. Chế
độ gia đình trị Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Thiệu được thăng
Thiếu tướng còn Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Ngọc Thảo được thăng Đại tá. Kết thúc một
chế độ độc tài nhưng bọn ngụy quân, ngụy quyền lại bước sang một giai đoạn mới
đó là xâu xé, hạ bệ lẫn nhau... chia nhiều phe "tướng trẻ",
"tướng già" rồi kết bè phái, "thổi" quân hàm cho vây cánh
nên thời này dân chúng còn gọi là "thời loạn tướng". Nguyễn Khánh làm
một cuộc đảo chính khác mang danh nghĩa “chỉnh lý” để hạ bệ Dương Văn Minh và
nhóm “tướng già” vì lý do “trung lập”, thân Pháp. Đại tá Phạm Ngọc Thảo được
Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách
mạng”. Tháng 10 năm 1964, khi Trần Thiện Khiêm được bổ nhiệm làm Đại sứ ngụy quyền
Sài Gòn tại Mỹ, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt
Nam Cộng Hòa. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy
nhiên đến đầu năm 1965, Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị ngụy quyền nghi ngờ nên Nguyễn
Khánh (khi ấy đang ở đỉnh cao quyền lực bằng “Hiến chương Vũng Tàu” với chức vụ
Quốc trưởng) triệu hồi ông về nước với ý định bắt ông ở ngay tại phi trường Tân
Sơn Nhất. Đại tá Thảo đã khôn khéo không về nước bằng chuyến bay đã định nên đã
thoát khỏi sự vây bắt của Nguyễn Khánh. Ông đã bí mật liên lạc với các lực
lượng đối lập để tiến hành đảo chánh lật đổ chế độ độc tài của Nguyễn Khánh và
cũng để ngăn kế hoạch ném bom miền Bắc giữa Nguyễn Khánh và Mỹ vào ngày
20/2/1965. Vì vậy, ngày 19/2/1965 cuộc đảo chánh được tiến hành với tên gọi
“Chiến dịch Nguyễn Huệ”. Phạm Ngọc Thảo cùng Thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá
Bùi Dzinh và Trung tá Lê Hoàng Thao đem quân (gồm các đơn vị thiết giáp với 45
xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương quân, lực lượng của Trường bộ binh
Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư đoàn 25 bộ binh) tiến vào chiếm
trại Lê Văn Duyệt, đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và phi trường Tân Sơn
Nhất. Nguyễn Khánh được Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát bằng máy bay ra Vũng Tàu (điều
này được Nguyễn Cao Kỳ trình bày khá chi tiết trong hồi ký).
Ảnh:
Đại tá Phạm Ngọc Thảo chỉ huy quân đảo chánh Nguyễn Khánh – “Chiến dịch Nguyễn
Huệ” năm 1965 (nguồn: báo thanhnien.vn)
Mục tiêu
quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được, nội bộ
phe đảo chính có nhiều chia rẽ, tranh giành nhau nên cuộc đảo chính thất bại.
“Hội đồng các tướng lĩnh” ngụy quân đã cử tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư lệnh
“Quân đoàn Giải phóng Thủ đô” đưa quân về Sài Gòn chống đảo chính và ra lệnh
cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải ra trình diện trong 24
giờ. Tuy cuộc đảo chính của Đại tá Thảo tham gia chỉ huy bị thất bại nhưng đã
góp phần hạ bệ Nguyễn Khánh, các tướng lĩnh trẻ đứng đầu là Thiệu - Kỳ nhân sau
khi dẹp được đảo chính đã buộc Nguyễn Khánh giải nhiệm mọi chức vụ chỉ huy và
đưa Khánh đi lưu đày ở nước ngoài với danh nghĩa “đại sứ lưu động” (một chức danh
không có thực quyền gì cả).
*Anh dũng hy sinh
Sau đảo chánh thất bại, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí
mật, lẩn tránh sự truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn.
Ông tiếp tục chuẩn bị tư tưởng cho các hoạt động cách mạng bằng cách xuất bản
tờ báo "Việt Tiến", mỗi ngày phát hành trên 50.000 tờ, tuyên truyền
tinh thần yêu nước. Ông có cả một hàng rào bảo vệ rộng lớn từ các xứ đạo Biên
Hòa tới Hố Nai, Thủ Đức; có nhiều linh mục giúp đỡ in ấn, phát hành tờ Việt Tiến.
Lúc này, ông bị chính quyền Thiệu - Kỳ kết án tử hình và treo giải 3 triệu đồng
cho ai bắt được nhưng vẫn liên lạc với cơ sở cách mạng trực tiếp là Sáu Dân (bí
danh của Võ Văn Kiệt) để hoạt động tiếp. Đồng chí Võ Văn Kiệt kể lại: "tôi
thấy Phạm Ngọc Thảo quá khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu. Nhưng anh
bảo vẫn còn khả năng đảo chính thành công quyết tâm ngăn chặn bàn tay đế quốc
Mỹ định đưa quân viễn chinh vào miền Nam, cản trở kế hoạch ồ ạt đổ quân vào Đà
Nẵng cuối tháng 5/1965...". Đại sứ quán Mỹ cũng đề nghị đưa ông ra nước
ngoài an toàn nhưng ông từ chối. Sau khi nhậm chức Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo
quốc gia (Quốc trưởng), Nguyễn Văn Thiệu quyết định tìm bắt và giết Phạm Ngọc
Thảo để trừ hậu họa. Tướng Lâm Văn Phát đã ra trình diện và chỉ bị cách chức, nhưng
đại tá Phạm Ngọc Thảo phải trốn nhiều nơi, cuối cùng đến trốn trong Đan viện
Phước Lý ở xã Vĩnh Thanh, Nhơn Trạch, Biên Hòa. Lúc 3 giờ sáng ngày 16 tháng 7
năm 1965, khi ông vừa ra khỏi Đan viện Phước Lý thì bị an ninh quân đội mai
phục sẵn bắt rồi đưa về một suối nhỏ gần Tam Hiệp, Biên Hòa, định thủ tiêu (có
một số tài liệu cho rằng có một tên phản bội đã chỉ điểm cho An ninh quân đội
ngụy bắt Đại tá Thảo). Tuy nhiên Phạm Ngọc Thảo không chết mà chỉ bị ngất vì
viên đạn chỉ trúng cằm. Tỉnh dậy, ông cố lết về một nhà thờ. Ông được linh mục
Cường, cha tuyên úy của Dòng Nữ tu Đa Minh, Tam Hiệp cứu chữa. Sau đó ông chủ
động xin chuyển tới chỗ khác phòng khi An ninh quân đội tới truy tìm, nhưng bị
phát giác và ông lại bị an ninh quân đội bắt về Cục an ninh quân đội, đường
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sài Gòn. Dù vết thương ở cằm vẫn còn đang rỉ máu và bị cực
hình của kẻ thù tra tấn dã man như đồng chí Phạm Ngọc Thảo vẫn thản nhiên trả
lời: “tiếp tục hoạt động theo con đường đã chọn, có đồng đội hợp tác để làm
việc lớn, không phải để khai báo”. Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Ngọc Loan
(người đã làm cả thế giới phẫn nộ vì hành quyết chiến sĩ đặc công trên đường
phố Sài Gòn năm 1968) và thuộc hạ tra tấn tàn khốc, siết cổ và bóp hạ bộ ông
cho đến chết vào đêm 17/ 7/ 1965. Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã anh dũng hy sinh khi
mới 43 tuổi. Đồng chí đã giữ vững khí tiết người chiến sĩ cách mạng cho đến hơi
thở cuối cùng, giữ vừng lời thề danh dự của người lính bộ đội cụ Hồ dù bị quân
địch bắt, dù phải chịu cực hình tàn khốc thế nào cũng cương quyết một lòng
trung thành với sự nghiệp cách mạng, không bao giờ phản bội xưng khai.
Năm 2012,
trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên trước câu hỏi: "Hồi đó
mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà tướng
Loan từng là người thân cận của ông?”. Nguyễn Cao Kỳ đã trả lời: “Tôi không
biết ông Loan có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông
Thiệu”. Có ý kiến cho rằng Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh
giết hại là bởi ông ta không tin Phạm Ngọc Thảo là Đảng viên cộng sản, nếu tin
Phạm Ngọc Thảo là đảng viên Đảng cộng sản thì Nguyễn Văn Thiệu sẽ không giết
Phạm Ngọc Thảo. Bởi kinh nghiệm từ cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm, Nguyễn
Văn Thiệu không cảm thấy lo sợ những người cộng sản bằng một người không cộng
sản được Mỹ và Giáo hội Công giáo hậu thuẫn để làm đảo chính lật đổ ông ta. Và
một điều quan trọng là Thiệu thấy nếu để Đại tá Thảo còn tồn tại quá nguy hiểm
cho ngôi vị của ông ta vì rằng Đại tá Thảo không hề nắm trong tay một binh
quyền thực sự nào nhưng vẫn làm được các cuộc đảo chính.
*Yên nghỉ
Sau ngày thống nhất đất nước, rất ít người biết thân phận thực
sự của đồng chí Phạm Ngọc Thảo, nhiều đồng đội đã vô cùng chua xót khi thấy mộ
ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh và đồng đội ông đã sưu tầm tư liệu, đề nghị Nhà
nước vinh danh, truy tặng. Năm 1987, được Nhà nước truy phong quân hàm Đại tá,
được công nhận là Liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngày 30/8/1995, Chủ tịch
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Lê Đức Anh đã trao Quyết định số
557/KTCTN truy tặng đồng chí Phạm Ngọc Thảo danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân. Và như đồng chí Mười Hương (Trần Quốc Hương - người thầy của
những nhà tình báo huyền thoại) đã từng nói: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm
Ngọc Thảo cũng xứng đáng”. Hiện nay, mộ phần của Đại tá Phạm Ngọc Thảo được đưa
về nghĩa trang tại phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh và
được tôn tạo. Mộ phần của Đại tá Thảo nằm gần các tên tuổi các nhà tình báo lỗi
lạc khác như Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn, Thiếu tướng Đặng Trần Đức, Thiếu tướng
Vũ Ngọc Nhạ, Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc…
Ảnh: Mộ phần của Đại tá Phạm Ngọc Thảo tại Nghĩa trang thành phố
Hồ Chí Minh thuộc phường Linh Trung, quận Thủ Đức (do người viết chụp).
Ngày 28
tháng 8 năm 2015, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức trọng thể lễ công bố quyết định của
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về xếp hạng di tích quốc gia, đối với nơi ở và
hoạt động của Đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo (dinh tỉnh trưởng cũ, sau là nhà
bảo tàng tỉnh), tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, Phường 3, thành phố Bến Tre,
tỉnh Bến Tre.
-Trần Quốc
Đạt-
Nhận xét
Đăng nhận xét